Một trong những cốt lõi của Như Lai ra đời, là chỉ cho chúng sanh cách thức thấy ra sự thật. Phần lớn khổ đau của chúng sanh đều do sự nhầm lẫn, không nhận chân được bản chất của vạn pháp, giả tạm không thật chấp cho là thật, vô thường tạm bợ chấp cho là thường, cái không phải là ta lại khăng khăng là của ta,… Điều đặc biệt quan trọng và gây ra đau khổ tiên quyết lại là nhầm lẫn với chính mình. Không thấy biết rõ ràng về bản chất, vật liệu và những yếu tố tạo nên thân và tâm này là Năm Uẩn, cũng như đặc tính vô thường biến hoại của chúng. Từ đó, dẫn đến sự thấy biết và cái nhìn dựa trên cái “tôi” to đùng của chính mình, là một trong những nguyên nhân gây ra đau khổ cho người và cho chính mình.

Trong kinh Đa Giới (MN115), đức Phật dạy: “Phàm có những sợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí (paṇḍitā). Phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí”. Như vậy, suy tư, quán chiếu như thế nào để có trí tuệ và đoạn diệt khổ đau? Đó là những gì mà suốt cuộc đời hoằng pháp của mình đức Phật đã thuyết giảng. Đau khổ xuất phát từ chính chúng ta, thì cũng phải từ nơi đó mà đoạn tận “...trong cái thân dài độ mấy tấc này, với những tư tưởng, những tư duy của nó, Ta tuyên bố về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt” (ANI). Như vậy đối tượng để chúng ta tư duy, quán chiếu là con người và thế giới mà ta đang sống. Hay nói khác hơn là quán chiếu về Năm Uẩn.

Khái quát về Năm Uẩn

Tất cả chúng ta đều biết Năm Uẩn là nhóm năm yếu tố tạo nên con người là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Sắc uẩn (Rūpakkhandha): Là sắc thân vật lý của con người, tức là nhóm vật chất bao gồm tứ đại và các pháp do tứ đại tạo thành. Sắc uẩn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên cơ sở vật chất con người, đồng thời cũng là yếu tố hình thành nên thế giới vật chất. 

Thọ uẩn (Vedanākkhandha): Đây là thành phần cảm giác đi chung với ấn tượng và ý nghĩ của chúng ta. Từ đầy đủ là cảm thọ (sensation). Thọ có ba: Thọ lạc, thọ khổ và thọ vô ký (tức là không khổ không lạc). Thọ phát sanh tuỳ thuộc nơi xúc (sự tiếp xúc của giác quan và trần cảnh). Thấy một vật thể, nghe một âm thanh, ngửi một mùi hương, nếm một vị, sờ đụng một vật, nhận thức một đối tượng của tâm (ý nghĩ hay tư tưởng). Từ đó con người kinh nghiệm một loại thọ. “Và này các Tỳ kheo, thế nào là thọ? Này các Tỳ kheo, có sáu thọ thân này: thọ do nhã xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỹ xúc sanh, thọ do thọ thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Này các Tỳ kheo , đây gọi là thọ”. Do sự tập khởi của xúc nên thọ tập khởi và do xúc đoạn diệt nên thọ cũng đoạn diệt.

Tưởng uẩn (Sannākkhandha): Là tập hợp các hoạt động tri giác, kinh nghiệm, hồi tưởng ký ức về những việc đã xảy ra thông qua sự tiếp xúc của sáu căn và sáu trần. Bên cạnh đó nó còn có khả năng tưởng tượng những việc chưa xảy đến hoặc là có sự đánh giá về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Về bản chất, tưởng có công năng chấp vào ngữ cảnh, bao gồm hình thái, màu sắc,…cũng như tạo ra những ấn tượng, những tên gọi trong trí não của một người. Về sự vận hành, tưởng hoạt động không bao giờ mang tính khách quan, và nó thường có khuynh hướng kết hợp với bảy tuỳ miên (tham, sân, mạn, kiến, nghi, tham hữu và vô minh). Vì vậy, nếu không tỉnh giác, ý thức được căn và cảnh theo bản chất khách quan của nó, thì chúng ta sẽ bị cái tưởng chi phối và dẫn đường.

Hành uẩn (Sankharakkhandha): Là nhóm những hành động nơi thân, miệng và ý. Tuy nhiên ý hành vẫn được xem là chủ chốt, vì tất cả những hành động nơi thân và miệng đều do ý làm chủ. Do vậy, nhiều khi nói đến hành, chỉ hiểu đơn giản là ý hành. Ý hành gồm tất cả những hoạt động của ý chí tốt hay xấu và mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp. Nói cách khác, hành là yếu tố tạo động lực đi tái sanh. Hành uẩn còn là những hiện tượng tâm lý (vui, buồn, thương, yêu, giận, ghét,…), hay được gọi là Tư tâm sở (cetana) hoặc là ước muốn hành động. Chính năng lực hùng mạnh và ý chí muốn sống này đã làm cho cuộc sống được liên tục sinh khởi triền miên, cùng với vô minh, ái dục của con người (buông lung, thoả mãn với các hành nghiệp của mình)

Thức uẩn (Viññānakkhandha): Là phần nằm chìm sâu gần hết vào vô thức và là lớp tâm thức cuối cùng, là một trong năm uẩn cấu thành con người. Chức năng của thức là hay biết đối tượng. Theo nguyên lý duyên khởi, thức vận hành là danh sắc vận hành, hay nói cách khác, thức vận hành là toàn bộ ngũ uẩn vận hành. Sự có mặt của một uẩn là sự có mặt của 4 uẩn còn lại: “Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức”, sự việc như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.” (tương tự với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy).

Tóm lại, con người do năm uẩn mà tồn tại, đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chúng nương vào nhau mà có mặt. Sắc thuộc về sắc uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh uẩn (tức thuộc về tâm). Trong bốn uẩn đó, cái nào có đặc tính cảm thọ, cảm nhận, cảm giác thì thuộc về thọ. Cái gì có đặc tính tri giác, tưởng tượng thuộc về tưởng. Cái gì có đặc tính tạo tác thì thuộc về hành. Và trong bốn uẩn đó, thức uẩn được xem là trọng tâm hơn thảy. Tuy nhiên, chỉnh thể thống nhất của năm uẩn ấy cũng chỉ là một hợp thể vô ngã, vô thường và rất tạm bợ nhưng chúng ta lại thường hay bám víu vào chúng để tạo tác các vọng niệm và hình thành nên nghiệp dẫn đi trong luân hồi.

Tu tập, quán chiếu Năm Uẩn:

Tác hại của việc bám chấp vào Năm uẩn

Hầu hết loài người chúng ta nói riêng và các loài hữu tình nói chung, đều không biết bản thân mình (gồm thân và tâm) đều được cấu thành từ năm uẩn, cho nên đều chấp cho rằng nó chính là mình. Vì không thấy biết rõ về năm uẩn nên chúng ta chấp thủ vào nó, cho rằng nó chính là ta, là của ta, là tự ngã của ta để rồi phải đắm mình, chìm trong biển khổ sanh tử. Cho nên, khi nào chúng ta còn đắm nhiễm nó, chấp thủ nó, ưa thích nó, chưa viễn ly nó, thì vẫn còn đau khổ, như kinh Tương Ưng III, Phật dạy: “Đối với năm uẩn, ai chưa viễn ly tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ai đã viễn ly tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức biến hoại sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não”. Cũng trong kinh này, Phật dạy: “Không liễu tri ngũ uẩn thì không thể đoạn tận khổ đau, do vậy cần phải liễu tri ngũ uẩn. Sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si được gọi là liễu tri.” 

Quán chiếu về năm uẩn

Trong pháp hành Thiền Phật giáo có Thiền Định (tức Thiền Chỉ) và Thiền Tuệ (tức Thiền Quán). Hai loại này thường kết hợp với nhau, và Thiền quán thường được dùng để đoạn tận các lậu hoặc vốn được hình thành do thói quen nhìn nhận sự vật với “ngã tướng”. Nếu như thông thường, các lậu hoặc hình thành do sự gặp gỡ giữa các giác quan và đối tượng cùng với tác ý có ngã tướng (vuông, tròn, cao, thấp, đẹp, xấu,…), thường hằng tướng,… khiến cho tham, sân, si ngày càng tăng trưởng. Thì để đoạn tận các lậu hoặc đó, chúng ta có thể tác ý theo hướng ngược lại. Có nghĩa là, người đời xem Vô thường là thường, khổ cho là vui, vô ngã cho là ngã thì chúng ta tác ý ngược lại là Vô thường, Khổ, Vô ngã để đoạn tận chúng. Như lý tác ý về năm uẩn còn được xem như phạm hạnh của một người xuất gia cần phải thực hành “Tỳ kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, huỷ hoại, trống rỗng, vô ngã”  để sanh tâm nhàm chán mà viễn lý nó. Bởi, nếu không như vậy, thì dù là người xuất gia cũng không thể thoát khỏi việc tham nhiễm vào sắc thân của mình hay của người khác, rồi sanh tâm tham ái và vô số hệ luỵ do chính cái năm uẩn này gây ra. 

Hoặc chúng ta có thể quán theo lời Phật dạy trong kinh Pháp Cú: 

“Biết thân như bọt nước

Ngộ thân là như huyễn

Bẻ tên hoa của ma

Vượt tầm mắt Thần Chết” (Dhp46) 

Hay: “Hãy nhìn như bọt nước

Hãy nhìn như cảnh huyễn

Quán nhìn đời như vậy

Thần Chết không bắt gặp” (Dhp170)

Và kinh Tạp A-Hàm: “Quán sắc như bọt nước, thọ như bong bóng nước, tưởng y như sóng nắng, các hành như cây chuối, tâm thức dường như huyễn, thị hiện đủ mọi sự”. Quán chiếu như vậy lâu ngày, tinh cần tinh tấn sẽ đưa đến sự nhàm chán về thân ngũ uẩn này. Nhàm chán này không có nghĩa là ghét bỏ nó, hành hạ thân xác (theo chủ trương của đạo Jain) mà nhàm chán ở đây nghĩa là không còn ưa thích nó, làm đẹp cho nó,…để hướng đến sự ly tham và đoạn diệt.

Hoặc trong kinh Vô Ngã tướng,  Phật cũng dạy “Phàm sắc gì (thọ, tưởng, hành, thức), quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần cần phải được như thật quán với chánh trí tuệ như sau: ‘cái này không phải là tôi, cái này không phải của tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’ .”  để xa rời năm uẩn, xa rời bản ngã, xa lìa sự chấp thủ, là nguyên nhân chính gây ra đau khổ triền miên trong luân hồi.

Hoặc chúng ta có thể quán về sự tập khởi, sự đoạn diệt của năm uẩn để có được sự giải thoát như đức Phật Vipassi “…Bồ Tát Vipassi, sau một thời gian sống quán sự sanh diệt trong năm uẩn: ‘Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc diệt’…thọ…tưởng..hành…thức…’ Đối với Ngài, sau khi sống quán pháp sanh diệt trong năm uẩn, chẳng bao lâu các lậu hoặc được tiêu trừ và ngài được giải thoát” (DN14).

Tóm lại, vì vô minh, si mê nên lầm chấp năm uẩn là thật của ta, nên gây ra bao đau khổ và hệ luỵ. Do đó, quán chiếu về năm uẩn giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về nó, lìa bỏ được tâm chấp trước, rũ bỏ đi sự tham luyến, bởi “Ai không chấp trước, không tham luyến, không suy tưởng, không hoan hỷ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức, người ấy giải thoát ác ma”. (SNIII). Cho nên, quán về năm uẩn là để thấy ra thật tánh vô ngã, sanh-diệt của nó. Từ đó đạt được cái thấy vô ngã (tức cái thấy duyên sinh hay y tánh duyên khởi), không còn bị buộc ràng bởi bất cứ điều gì trên đời, dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn tận tất cả pháp hữu lậu và không còn lo âu, phiền muộn và đi đến sự giải thoát mọi lậu hoặc.