Cưu Ma La Thập không chỉ là một nhà phiên dịch kinh tạng từ Phạn ngữ qua Hán ngữ mà chúng ta nên biết ngài còn là một nhà đại truyền giáo đã làm thay đổi cả diện mạo Phật giáo của các quốc gia sử dụng tam tạng Hán ngữ. Công việc thuần túy dịch thuật chỉ là một phần sự nghiệp của La Thập. Sự nghiệp lớn của ngài là việc đặt lại cả cơ cấu Hán ngữ trong Phật học.
Phật giáo truyền qua Á Đông là công nghiệp chung của rất nhiều nhà dịch thuật và truyền giáo. Nhưng dưới ảnh hưởng các dịch phẩm của La Thập và ngôn ngữ Phật học Hán ngữ mà La Thập đã giúp công thiết lập, đã trở thành cơ bản chung của nội dung Phật học Á Đông, một nội dung mà sau này các nhà Phật học khác tiếp tục vun xới. Và đây mới là công nghiệp lớn của La Thập. Nói một cách khác dễ hiểu là phần lớn tu sĩ và Phật tử Á Đông trì tụng và hiểu kinh Phật không phải trực tiếp mà qua ngôn ngữ Hán văn. Một ngôn ngữ bị ảnh hưởng trực tiếp từ các bản dịch của La Thập và các bản dịch sớ sao giải thích của người khác nữa, nhưng nhiều vị này cũng chịu ảnh hưởng của La Thập.Về dịch thuật, La Thập là một trong bốn dịch giả lớn nhất của sự thành tựu Đại tạng Hán văn mà ai cùng biết. Nhưng ảnh hưởng của La Thập không chỉ qua các bản dịch mang tên La Thập mà quan trọng hơn là qua công tác dịch thuật của mình, La Thập đã định lại toàn diện ngôn ngữ Hán Phật. Lẽ dĩ nhiên trước La Thập đã có rất nhiều dịch giả tài trí. Nhưng có thể nói chung, phần lớn các dịch phẩm thời trước La Thập đều là những cố gắng của cá nhân, nên không có cơ sở thống nhất, và chính bản thân các người dịch cũng khó có người thông hiểu cả hai ngôn ngữ một cách thật sâu sắc. Thêm vào đó, một khuyết điểm chung của các bản dịch trước thời La Thập là vay mượn quá nhiều vào ngôn ngữ Đạo học Lão Trang. Đó là phương pháp “dùng Lão để giải Phật” hay lối dịch cách nghĩa, tức là phương pháp so sánh loại suy (method of analogy) dùng những ngôn từ khái niệm văn hoá sẵn có của Trung Hoa để giải thích kinh điển Phật giáo[2] -Cách dịch giải này có ưu điểm là làm cho người Trung Hoa dễ hiểu Phật giáo hơn, nhưng cũng từ đó đã nảy sinh ra các cách hiểu Phật giáo một cách không qui phạm, không chính xác. Điển hình là các hoạt động rầm rộ của “Lục Gia Thất Tông” rất nổi tiếng của Phật học thời Nam Bắc Triều tàn lụi dần sau khi các tác phẩm dịch thuật của La Thập ra đời mà chúng ta sẽ nói đến ở phần cuối bài này. Cho nên có thể nói, từ sau La Thập chúng ta mới có những danh từ Phật học Hán ngữ mới hơn và chính xác hơn làm Cơ bản cho học thuật Phật giáo ở Trung Hoa cho đến tận ngày nay.
Một trong những công nghiệp khác của La Thập cũng ít được biết đến, là việc ngài mang được nhiều kinh đến Trường An và phần lớn là các bản kinh cổ, qúy[3]. Trước hết, việc hoằng pháp đến Trung Hoa là do chính ý định của La Thập mà ngài đã có dự tính trước, bản thân La Thập là một hoàng tử có uy thế và được kính trọng ở quốc gia của ngài, nên có khả năng tiếp cận những kinh điển quí hiếm. Thứ hai, là cuộc ra đi của La Thập là do chính hoàng đế của đế quốc lớn yêu cầu (trước đó là do lệnh của vua Phù Kiên, sau đó là lệnh của vua Diêu Hưng). Trong số kinh sách La Thập mang theo, có nhiều bộ luật tạng (vinaya pitaka) của truyền thống Đại thừa, loại này rất quí hiếm vào thời đó, đặc biệt là quyển Brahmajala (Phạm võng kinh, La Thập dịch T 1484). Bản kinh Phạm võng là cơ sở của giáo luật Đại thừa, là cơ sở nền tảng cho giới luật tăng sĩ Đại thừa. Trước đó vì thiếu kinh luật mà giáo luật của Phật giới Trung Hoa không thống nhất nên đã gây rất nhiều khó khăn cho vấn đề sinh hoạt nội bộ tăng già như một tổ chức tôn giáo chính thống và toàn vẹn. Lý do nhóm ngài Pháp Hiển (340? – 420?) đi thỉnh kinh cam khổ đến Ấn Độ gần 20 năm, cùng thời gian ngài La Thập bị giữ ở Lương Châu, cũng là chỉ vì ngài Pháp Hiển có tâm nguyện tìm cho được các kinh về luật tạng này.
Không gian học tập của một thánh tăng
Kumarajiva (chữ Hán dịch âm là Cưu
Ma La Thập, Cưu Ma La Đà, Cưu Ma La Thập, Cưu Ma La Thập Bà, Câu Ma La Đổ Bà,
gọi tắt là La Thập, dịch nghĩa là Đồng Thọ) là nhà truyền giáo và học giả Đại
thừa danh tiếng, nhưng vùng đất ngài sinh ra và trưởng thành lại là xứ sở của
thế giới Tiểu thừa Phật giáo, nơi Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada)[4] hầu
như là một tông phái Phật giáo duy nhất có mặt và thịnh hành từ nhiều trăm năm trước
khi La Thập ra đời. La Thập gốc người Kucha (Quy Tư). Quê hương của La Thập vào
lúc đó, thế kỷ thứ tư dương lịch, là vùng đất có ảnh hưởng lâu đời của tông
phái Sarcastivadin (Nhất thiết hữu bộ). Hơn hai trăm năm sau, trong quyển du ký
nổi tiếng của Huyền Trang còn cho biết Kucha có tới 100 tự viện với khoảng 5000
tu sĩ. Hai thị trấn lớn của Kucha gần đó là Agni có 10 tự viện với 200 tu sĩ và
Aksu có nhiều chục tu viện với khoảng 1000 tu sĩ, tất cả đều là của Phật giáo
Sarcastivadin[5].
Thời La Thập, quốc gia Phật giáo lân
cận Kucha là vương quốc Khotan (Vu Điền) mới thật là vùng sinh hoạt của Phật
giáo Đại thừa. Tuy nhiên sử cho biết La Thập chưa bao giờ đi đến Vu Điền, mặc
dù sau này ở Trường An ngài có cộng tác với nhiều học giả Phật giáo đến từ
Khotan và sử dụng nhiều kinh điển Sanskrit mang đến từ đấy, như trường hợp ngài
cộng tác với Buddhayasas để dịch Dasabhumika (Thập địa kinh T 286)[6]. Trong lịch sử Phật giáo
Trung Hoa, có nhiều đại sư Phật giáo Đại thừa nổi tiếng cũng đến từ Khotan.
Nhiều kinh sách Đại thừa bằng Hán ngữ đầu tiên cũng được dịch từ Khotan. Còn
khu vực La Thập sinh ra và sau đó theo mẹ du học ở Kashmir (Kế Tân) bắc Ấn Độ
và vùng ngài tu học lâu nhất là Kashgar (Sa Lặc) đều là vùng hoạt động của Phật
giáo Sarcastivadin. Khi Huyền Trang viếng thăm Kashgar hơn hai thế kỷ sau còn
cho biết cả trăm tự viện ở đây đều thuộc về Phật giáo Sarcastivadin.
Thân phụ của La Thập là Kumarayana
(Cưu Ma La Viêm) là một nhà quí tộc Ấn Độ và cũng là một tu sĩ danh tiếng.
Nhưng khi vân du đến Kucha, La Viêm bị vua nước này quá quí mến mời làm quan
trưởng và gả em gái của ông là công chúa Jiva (Kỳ Bà) nổi tiếng xinh đẹp để giữ
La Viêm ở lại. Công chúa Jiva trước vốn có đạo tâm, từ khi hoài thánh thai ngài
La Thập lại càng thông minh và tinh tấn về đạo pháp hơn, nên quyết chí xuất
gia. Dù vậy, để giữ lời hứa với vua và La Viêm, bà đã ờ với chồng cho đến khi
có người con thứ hai mới được xuất gia cùng với La Thập lúc này đã 7 tuổi. Quả
thật sau khi xuất gia, bà tu hành rất tiến bộ, chứng quả vị rất cao và đã là
một động cơ chính của việc xuất gia tu học, cũng như hành trình qua Đông độ của
La Thập sau này.
Như các vĩ nhân khác, La Thập rất
thông minh, nổi tiếng là thần đồng từ nhỏ. Theo mẹ, La Thập bắt đầu học
kinh A hàm (Agamas) A-tì-đàm (Abhidharma), mồi ngày học thuộc đến cả ngàn câu. Năm
lên 9 tuổi, La Thập theo mẹ đến Kashmir (Kê Tân) bắc Ấn Độ, cũng là trung tâm
của Phật giáo Tiểu thừa ngày đó. Ở đây, ngài theo học Trường a
hàm, Trung a hàm và Tạp a hàm (Dirghagama, Madhyamagama,
Ksudrakà) với Bandhudatta (Bàn Đầu Đạt
Đa). Là học trò giỏi nhất của Bandhudatta, một đại sư danh tiếng cả nước, nên
La Thập cũng bắt đầu nổi tiếng trong tăng giới nước này, dù lúc đó ngài mới chỉ
là một thiếu niên.
Sử còn ghi lại việc La Thập từng
tranh luận thắng các luận sư Tirthikas. Cho đến năm 12 tuổi, La Thập lại theo
mẹ trở về cố quốc Kucha. Trên đường về, La Thập dừng ở Kashgar (Sa Lặc). Ở đây,
La Thập học các kinh luận Abhidharma jnana prasthana
sastra (A tỳ đạt ma phát trí luận – sau
này Huyền Trang dịch, T. 1543) là một kinh nổi tiếng của Nhất thiết hữu bộ.
Cũng trong thời gian này, La Thập còn học về kinh điển Vệ đà và năm môn khoa học (vidya: ngữ pháp, logic,
siêu hình học, y học, nghệ thuật) và cả khoa học và Thiên văn học, theo đúng
truyền thống của các nhà trí thức Ấn Độ thời đó.
Trong thời gian ở Kashgar, La Thập
có dịp quen Suryasoma (Tu Lợi Da Tô Ma) một tu sĩ Phật giáo Đại thừa[7].
Suryasoma vốn là hoàng tử nước Yarkand (Toa xa). Nước này theo Đại thừa vì ờ
ngay cạnh Khotan được coi là trung tâm Phật giáo Đại thừa thời đó. Đến tận năm
644, Huyền Trang cũng ghé qua Yarkand cho biết Phật giáo Đại thừa vẫn tiếp tục
phồn thịnh ở đây. Nhờ sự giới thiệu và hướng dẫn của Suryasoma về kinh Anavatapta nagarạịa
parỉprccha sutra {Phật thuyết hoằng đạo quảng hiển tam muội kinh, Trúc
Pháp Hộ/ Dharmaraksa dịch T 635) mà lần đầu tiên La Thập biết đến kinh điển Đại
thừa. Sau đó La Thập tìm học thêm Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Khi
đọc được kinh điển Đại thừa, La Thập mới thật sự giác ngộ và quyết chí bỏ Tiểu
thừa từ đây. Cũng trong thời gian này La Thập quen với Buddhayasas một tu sĩ
Phật giáo Đại thừa người Ấn Độ.
Rời Kashgar, La Thập và mẹ trờ về Kucha. Năm 20 tuổi, La
Thập chính thức thọ giới ở ngay hoàng cung. Nhà vua rất yêu thích và hãnh diện
vì có vị tu sĩ học giả và là cháu của mình, nên để La Thập tu học ở ngay trong
chùa hoàng cung. Có lẽ nhờ ở chùa hoàng gia là chùa của cả nước nên mới có kinh
sách về Đại thừa như trường hợp ngài tìm được kinh Pancavimsati ở
đây (sau này La Thập dịch là Ma ha bát nhã ba la mật, T. 223)
nên La Thập cũng có dịp tìm đọc thêm các kinh luận Đại thừa khác. Cũng trong
thời gian ở đây La Thập học luật Thập tụng {Sarvastivadi – vinaya T.
1435) với Vimalsksa, một danh sư người Bắc Ấn. Vimalsksa không bị Lữ Quang bắt
trong năm 382,nên đến năm 406 mới đến Trường An giúp La Thập dịch kinh. Sau khi La Thập
mất, ông mang quyển Thập tụng luật mà La Thập đang dịch dang
dở về miền Nam và dịch tiếp ở đây.
Danh tiếng học giả của La Thập lúc
này lan truyền ra tận ngoài nước. Cho nên ngài Bandhudatta, thầy cũ của La Thập
cũng tìm đến để xem lại người học trò cũ của mình. La Thập quyết định truyền
giáo pháp Đại thừa cho thầy cũ để trả ơn người. Sử nói rằng La Thập đã phải mất
đến cả tháng trời tranh luận mới thuyết phục được vị thầy danh tiếng và uyên
bác này theo Đại thừa. Nhưng cũng lúc này là lúc mẹ ngài phải từ biệt ngài để
trở về Thiên Trúc. Với tuệ nhãn của người tu đạo bà tiên đoán trước được khó
khăn của La Thập nên nói với ngài: “Chánh pháp Đại thừa phải truyền qua Đông độ
mà chỉ có sức con mới truyền được, nhưng sẽ có nhiều bất lợi khó khăn cho con,
chẳng biết làm sao hơn.” La Thập trả lời: “Đạo bồ tát là quên mình mà làm lợi
cho chúng sinh. Nếu chánh pháp được truyền qua Đông độ làm lợi cho sinh dân nơi
đó thì thân mạng con nào có đáng tiếc gì?”
Đông độ là Trung Hoa, lúc đó sử gọi
là thời Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Vua Phù Kiên của Tiền Tần (sử cũng gọi là Phù
Tần, theo tục gọi tên nước chung với họ nhà vua) là quốc gia mạnh nhất đương
thời và cũng rất ủng hộ Phật giáo. Năm 382, lúc này La Thập đã 38 tuổi, tên
tuổi vang đến tận Đông độ, nơi đại sư Đạo An, vị lãnh tụ Phật giáo lúc bấy giờ
và cũng đang là quốc sư của Phù Tần. Ngài Đạo An đã khuyên vua Phù Kiên cung
thình La Thập đến Trường An. Phù Kiên sai tướng Lừ Quang chinh phạt Quy Tư với
mục đích chính là đón cho được La Thập. Đại quân của Lữ Quang thành công mang
được La Thập về đến Lương Châu thì nghe Phù Kiên bị thua trận Phù Thủy[8] và
sau đó bị thủ lĩnh của tộc Khương là Diêu Trường giết mất nên Trường An có
loạn. Lữ Quang liền đình quân ở Lương Châu tự xưng vương, lấy tên nước là Hậu
Lương. Lữ Quang cũng muốn giữ La Thập làm con tin nên nhiều lần từ chối vua mới
là Diêu Trường nhà Hậu Tần đòi gửi La Thập về Trường An. Vì vậy La Thập bị Lữ
Quang giam lỏng ở Lương Châu trong gần 20 năm.
Mười năm hành đạo ở Đông độ
Trong khi đó Diêu Trường ở Trường An lên làm vua cũng
tiếp tục lấy tên nước là nhà Tần, sử gọi là Hậu Tần hay Diêu Tần. Cho đến khi
Diêu Hưng (366 – 416) lên nối ngôi Diêu Trường và sai Diêu Thạc Đức chinh phục
Hậu Lương năm 401 (Hậu Tần Hoằng Thi năm thứ ba) mới đón được La Thập về Trường
An. Vua Diêu Hưng kính trọng La Thập hết mực, tôn ngài làm quốc sư và để ngài ở
ngay Tây Minh Các trong Tiêu Dao viên của hoàng gia. Trong lúc đó triều đình
cũng cho tập trung ngay cả ngàn chư tăng bác học nhất trong nước về Trường An
giúp La Thập có thể bắt đầu công cuộc dịch thuật như ngài mong muốn. Danh tiếng
của La Thập từ trước đã vang lừng khắp nơi. Thực tế là khi nghe ngài sắp đến
Trường An, nhiều đại sư danh tiếng nhất thời bấy giờ cũng đã tự động tụ tập về
đây. Điển hình nhất là ngài Đạo An (312-385),được coi là người lãnh đạo
Phật giáo thời bấy giờ và chính là người trước đó đã hối thúc vua Phù Kiên mời
La Thập về Trường An. Khi ngài Đạo An mất mà chưa gặp được La Thập, ngài đã di
ngôn lại cho các đệ tử quan trọng nhất của mình là nhóm Tăng Duệ chờ đón La
Thập ờ Trường An. Và chính Tăng Duệ sau này là người chấp bút trong hội phiên
dịch của La Thập. Trong khi đó nhiều vị khác trẻ hơn như Tăng Triệu thì đã âm
thầm đến tận Cô Tang tìm gặp La Thập ngay từ ngày ngài còn bị Lừ Quang giam
lỏng ở đây.
Đầu năm 402, La Thập mới bắt đầu
công việc dịch kinh điển ở vườn Tiêu Dao. Ngoài việc phiên dịch ngài còn phải
thường xuyên thuyết pháp vì số tín đồ tăng chúng ngưỡng mộ ngài quá đông, đặc
biệt là giới thượng lưu quan quyền, phần vì chính nhà vua cũng là một Phật tử
rất thuần thành và rất kính trọng La Thập. Sự ái mộ dành cho La Thập và Phật
giáo nói chung không phải chỉ có thói đời xu phụ khi thiên hạ thấy Phật giáo và
bản thân La Thập được hoàng đế ủng hộ mà phong trào cả nước thật sự đều có lòng
tin Phật. Như tôi đã có dịp nói trước đây[9] là
nhìn lại toàn bộ tư tưởng Trung Hoa trước thời Phật giáo du nhập, việc Phật
giáo đã dùng các tư tưởng ngôn ngừ của Đạo học để truyền bá vào Trung Hoa đúng
là một lý do Phật giáo mau chóng được chấp nhận ở mảnh đất cổ kính này, nhưng
tôi cũng nghĩ rằng sau đó Phật giáo vững mạnh đến nỗi chuyển cả vùng đất mênh
mông này thành một quốc gia Phật giáo cũng bởi vì văn hóa truyền thống cổ Trung
Hoa dường như thiếu hẳn ý thức về tôn giáo. Nói theo ngôn từ triết học Trung
Hoa thì tư tưởng Khổng Mạnh cuối cùng chỉ là triết lý về phần hình nhi hạ, lý
luận về phương diện đạo đức xã hội, nói theo ngôn từ của Phùng Hữu Lan
trong Tân nguyên đạo thì “Triết học của các học giả
Khổng giáo sơ kỳ (chưa có ảnh hưởng Phật giáo) chưa đến được lãnh vực lý
thuyết, chưa vượt thoát được đến bờ mẻ tận cùng”[10]. Còn
Đạo học hay Huyền học Trung Hoa thì lại chù về tư tưởng triết lý hơn là những
tư duy tôn giáo. Vì vậy, Phật giáo đã mau chóng trở thành tôn giáo duy nhất của
đất nước này và dồn các hình thức tôn giáo phiếm thần như Hoàng Lão phù thủy
trở thành các sinh hoạt tín ngưỡng sơ khai vẫn còn tồn tại qua các lễ hội
truyền thống rải rác cho đến tận ngày nay[11].
Công việc dịch thuật thì càng ngày
càng bận bịu, vì La Thập không chỉ dịch những kinh luận chưa được dịch mà ngài
cũng phải dịch lại các tác phẩm đã được dịch rồi nhưng cần phải san nhuận trở
lại. Cũng vì vậy mà từ năm 406 ngài ra ở hẳn Trường An Đại Tự, nơi có các kiến
trúc xây riêng thuận tiện cho việc dịch thuật. Khi ấy, số nhân viên đã có lúc
lên đến tận 3000 người. Việc dịch lại các kinh đã có người trước dịch không
phải chỉ là sự ưa thích tiêu chuẩn chính xác và cao nhã của riêng La Thập mà
thường do lời yêu cầu chung của mọi giới, đặc biệt là của chính nhà vua. Nhưng
cũng vì thế mà La Thập đã tạo ra được một tiêu chuẩn chung, xây dựng được cả một
hạ tầng ngôn ngữ Hán văn Phật giáo cho cả kiến trúc tam tạng kinh điển Phật
giáo Hán tạng đồ sộ mà chúng ta có được ngày nay.
Trong vòng 10 năm rất ngắn ngủi nhưng với lối làm việc
khoa học và số nhân sự cũng như phương tiện dồi dào, La Thập đã dịch được tới
300 quyến[12]. Có nhiều sách báo cáo số kinh
luận do ngài dịch khác nhau. Sách cổ nhất là Xuất tam tạng ký tập đầu
thế kỷ thứ 6 cho biết có 35 bộ (293 quyển), Khai nguyên thích giáo lục cho
là 74 bộ (384 quyển). Sở dĩ có sự khác biệt này là vì có những bộ (cuốn
sách riêng rẽ) là các kinh hay luận rất ngắn, hoặc có những bộ đã do người khác
dịch trước mà La Thập chỉ nhuận chính lại. Đặc biệt là theo học giả Nhật Bản
Hatani, thì có tới 17 bộ kinh của Dharmaraksa[13] (Trúc Pháp
Hộ) dịch trước đã được La Thập dịch lại. Trong số này có các kinh quan trọng
như Ma ha bát nhã ba la mật (T. 223),Diệu pháp liên hoa (T. 262), Đại
bảo tích (T. 310),Duy ma cật (T. 475), Thủ
lăng nghiêm (T. 642), Trí thể kinh (T. 482)… Theo tôi
nghĩ ngài Dharmaraksa khi qua Đông độ rất sớm, với tình hình không có kinh sách
ngày ấy, ngài đã phải cấp tốc dịch thật nhiều những kinh mà ngài thấy cần thiết
phải có ngay. Với hoàn cảnh của người tiên phong đến một vùng đất hoàn toàn xa
lạ với văn hoá và ngôn ngữ Phật giáo, chắc chắn ngài sẽ gặp những khó khăn mà
100 năm sau La Thập không còn thấy. La Thập là người đến sau, ngoài những kinh
luận ngài thấy cần ưu tiên dịch ngay, La Thập cũng thấy cần phải tuyển dịch lại
những kinh luận quan trọng, nên ngài đã phải dịch lại những kinh này.
Theo những nghiên cứu mới, thì trong
số 55 bộ kinh của La Thập còn giữ trong Đại tạng Hán ngừ (Đại
chánh tân tu đại tạng kinh) số kinh có
đề rõ ngày tháng phiên dịch chì có 23 bộ[14], còn
những kinh luận khác không đềngày dịch, về số lượng thì con số 55 bộ kinh của
La Thập còn thua 94 bộ của Dharmaraksa hay 75 bộ (1335 quyển) của ngài Huyền
Trang. Tuy nhiên về mức độ còn được tiếp tục dùng như bản tiêu chuẩn thì có thể
nói các bản dịch của La Thập vẫn tiếp tục đứng đầu. Rất nhiều kinh có
trong Đại tạng trùng dịch với bản dịch của La
Thập chỉ còn được các nhà nghiên cứu dùng làm sách tham khảo khi cần thiết mà
không được quần chúng biết đến. Thí dụ như kinh Kim cang có
đến 6 bản Hán dịch, nhưng quần chúng chỉ biết đến bản của La Thập. Tại viện Hán
Nôm Việt Nam còn tàng giữ đến 16 bản kinh Kim cang, kể
cả các bản in lẫn chép tay, nhưng tất cả đều là dịch bản của La Thập. Trước đây
Phật học giới Việt Nam dường như chưa hề biết đến các bản dịch khác, mặc dù
triều đình Việt Nam đã từng nhiều lần xin được trọn bộ Tam tạng Hán văn do
triều đình Trung Hoa khắc in.
Nội dung kinh luận của La Thập dịch thuật
Kinh sách do La Thập dịch nhiều nhất là thuộc kinh luận
Tánh Không của Đại thừa. Các kinh quan trọng nhất có thể kể ra là Ma ha
bát nhã ba la mật (T. 223), Bát nhã bát thiên tụng (T.
227), Duy ma cật sở thuyết (T. 475),Kim cương bát nhã (T. 250), Bát
nhã tâm kinh (T. 250),Diệu pháp liên hoa kinh (T.262), thập
địa kinh (T. 286) dịch chung với Buddhayasas. Ngoài Tam luận danh
tiếng Trung luận (T. 1564), Bách luận (T.
1569) và Thập nhị môn luận (T. 1568 ) La Thập còn dịch thêm ba
luận quan trọng khác của Long Thọ là Đại trí độ luận (T.
1509), Thập trụ tỳ bà sa luận (T. 1521) và của Thế Thân
là Phát bồ đề tăm kinh luận (T 1659). Tuy nhiên nhìn chung
phạm vi kinh luận La Thập địch rất rộng, hầu như có đủ mọi khuynh hướng Phật
học. Với Phật học Việt Nam thì gần giống như Trung Hoa, nghĩa là khi có nhiều
bản dịch khác nhau thì người ta thường hay chọn bản dịch của La Thập. Trong 55
bộ kinh của La Thập hiện có trong Hán tạng (Tân tu đại tạng) cá
nhân tôi sưu tập có 15 bộ đã được dịch ra Việt ngừ có thể kể ra là[15]:
1. Kinh Diệu pháp liên
hoa (7 quyển).
2. Kinh Phạm võng (2
quyển).
3. Kinh Di giáo (1
quyển)
4. Kinh Duy Ma Cật (3
quyển).
5. Kinh Di đà (1
quyển).
6. Kinh Thủ lăng nghiêm (2
quyển).
7. Kinh Kim cang bát
nhã (1 quyển).
8. Kinh Vô lượng thọ (1
quyển).
9. Luật Thập tụng (61
quyển).
10. Tọa thiển tam muội (3 quyển).
11. Đại trí độ luận (100 quyển).
12. Thành thật luận (16 quyển).
13. Trung luận (4 quyển).
14. Bách luận (2 quyển).
15. Thập nhị môn luận (1 quyển).
Theo học giới thì La Thập không câu nệ trường phái hay khuynh hướng khi chọn kinh để dịch, mà hoàn toàn theo thứ tự mà ngài nghĩ là cần thiết nhất. Việc La Thập dịch lại nhiều kinh luận đã được người trước địch, ngoài lý do chủ quan cho là người trước dịch chưa đạt, còn vì có người khác yêu cầu. Trường hợp rõ ràng nhất là La Thập đã dịch lại kinh Duy Ma Cật sở thuyết là do Tăng Triệu yêu cầu, vì như ta biết Tăng Triệu rất mộ kinh này, Tọa thiền tam muội là do Tăng Duệ yêu cầu, Tư ích phạm thiên sở vấn kinh (T. 586) là do nhà vua yêu cầu. Đặc biệt là kinh Ma ha bát nhã ba la mật do chính vua Diêu Hưng yêu cầu. Không những yêu cầu, sử còn cho biết chính nhà vua đôi khi cùng tham dự trong việc dịch thuật.
Phương pháp dịch của La Thập
Sử liệu cho ta biết trường họp dịch thuật của La Thập
được cả một triều đình hỗ trợ với các phương tiện mà từ trước chưa hề có được.
Hãy tưởng tượng con số 3000 tu sĩ và học giả tham dự trực tiếp trong dịch
trường đó, với nhiều khi đích thân nhà vua cũng tham dự trực tiếp[16] thì chúng ta có thể cảm thấy qui
mô của nó như thế nào. Phương tiện như thế, thiết tưởng với phương tiện hiện
đại, người ta cũng không thể nào tái hiện lại được khung cảnh uy nghiêm và đồ
sộ như vậy.
Rất tiếc là La Thập không để lại tài liệu nào cho biết
phương pháp và tiêu chí làm việc của ngài. Sử chỉ cho biết cách làm việc của
ngài so với lề lối cổ điển rất khác biệt. Vì có thừa nhân số, nên trường dịch
của ngài đã biến thành trường dịch tập thể. Trước hết La Thập giảng kinh cho toàn
cử tọa, sau đó các nhóm sẽ phân công thảo luận và đúc kết ghi chép lại bản dịch
sơ thảo. Tiếp theo La Thập đọc lại rồi so sánh với chính bản và sửa chữa. Bản
này sẽ còn được một vị tăng sĩ học giả làm nhiệm vụ chấp
bút, so sánh và viết ra bản dịch giao
lại cho La Thập đích thân tổng duyệt và đồng ý. Lẽ dĩ nhiên những khâu đoạn này
là do chúng ta thâu lượm các tin tức để viết lại như thế. Không có văn kiện nào
còn sót lại cho chúng ta biết nhiều hơn. Trái lại còn có những đoạn văn rời cho
ta thấy các khâu đoạn này không phải luôn luôn được tuân thủ một cách chặt chẽ.
Tuy không có văn kiện nào hiện nay còn giữ được để cho
ta biết đích xác phương pháp và tiêu chí cách dịch thuật của dịch trường này,
nhưng may mắn chúng ta còn giữ đuợc một số tài liệu của Tăng Duệ người chấp bút
cho Cưu Ma La Thập cũng là đệ tử của Đạo An. Trong lời tựa cho bản dịch
kỉnh Ma ha bát nhã ba la mật (T.
223) Tăng Duệ viết: “Khi tôi cầm bút, tôi luôn nghĩ ba lần tới (nguyên tắc dịch
kinh) tiên sư.”[17] Tiên sư của Tăng Duệ là Đạo An (312 – 385). Như
chúng ta đã biết Đạo An là nhân vật trung tâm của Phật giáo Trung Hoa thời sơ
kỳ, là người đã đưa được tu sĩ Trung Hoa vào kỷ cương chung, từ việc chấp nhận
giới luật chung (lúc đó Trung Hoa chưa biết đến kinh Luật của Đại Thừa) cho đến
việc lấy chung chữ Thích làm họ[18]. Và “lời cuả tiên sư” mà Tăng Duệ nhắc
ở đây chính là nguyên tắc dịch thuật ngũ thất bản[19] (năm điều khiến bản dịch không thể
nhất trí với nguyên tác) và tam bất dị[20](ba điều không dễ) của Đạo An đã viết.
Năm 382, Đạo An là người đã đề ra các lí luận dịch thuật là Ngũ thất bản và Tam
bất dị để dịch kinh từ chữ Phạn qua chữ Hán (trong bài Đạo An viết tựa
cho Bát
nhã Ba la mật kinh sao). Đây là các lí luận không những La Thập tôn
trọng mà còn được coi là tiêu chuẩn chung cho đến ngày nay.
Trong lời nói đầu của bản dịch kinh Ma
ha bát nhã ba la mật của La Thập do
Tăng Duệ chấp bút, Tăng Duệ còn cho thí dụ 9 trường hợp các chữ La Thập đã dịch
lại là vì hai lí do chính: Nếu là chữ biểu âm thì phải dùng chữ Hán đọc đúng âm
chữ Phạn theo cách đọc đúng mà ông biết (nhiều vị dịch trước có thể biết nghĩa
chữ nhưng chưa chắc đã đọc đúng). Nếu là chữ dịch nghĩa thì phải chọn chữ Hán
đúng nghĩa nhất với chữ Phạn. Chín thí dụ này là:
1. Ấm (陰)trước dịch chữ skandha nay
dịch là uẩn[21] 蕰
2. Nhập (入) trước dịch chữ ayatana nay
dịch là xứ 處
3. Trì (授)trước dịch chữ dhatu nay
dịch là tính 姓[22] (界)
4. Giải thoát (解脱)trước dịch chữ vimoksa nay
dịch là bối xứ 背捨[23]
5. Trừ nhập (除入) trước dịch chữ abhidhvayatana nay
dịch là thắng xứ 勝處•
6. Ý chỉ (意止)trước dịch chữ smrtyupasthana nay
dịch là niệm xứ 念 虜
7. Ý đoạn (意斷) trước dịch chữ samyak-prahan nay
dịch là thánh đạo聖道
8. Giác ý (覺意)trước dịch chữ bodhi nay
dịch là bồ đề 菩薩
9. Trực hành (直行)trước dịch chữ arya
– marga nay dịch là thánh đạo 聖道 Chín thí dụ này quá ít
không thể đại diện cho tất cả, nhung qua đó chúng ta cũng thấy La Thập dường
như trong các từ mới thay cho từ cổ, ngài chuộng chữ dịch nghĩa hơn chữ dịch
âm.
Điều chúng ta phải biết là dù có nhiều phương tiện và toàn quyền tự định đoạt chương trình làm việc, La Thập vẫn rất cẩn thận trong mọi hoạt động dịch thuật của ngài. Sử không nói nhiều về việc này nhưng qua nhiều sự kiện riêng lẻ như trường hợp La Thập đã trì hoãn không chịu dịch ngay kinh Dasabhumika Thập trụ kinh – T. 286) để đợi cho đến khi Budhayasas (Phật Đà Da Xá) đến được Trường An, vì theo La Thập Buddhayasas là người rất hiểu kinh này. Một trường hợp khác là khi Punyatrata (Phất Nhã Đa La) người giúp La Thập dịch sarvastivadi – vinaya (Thập tụng luật – T. 1435) mất sớm. La Thập không dịch tiếp nữa, mặc dù như ta biết La Thập đã học thuộc kinh này từ hồi 20 tuổi ở quê nhà (Sau Vimalsksa mang về miền Nam dịch tiếp và trên tên kinh vẫn đề La Thập dịch). Nhìn chung như vậy cho ta thấy La Thập chưa bao giờ làm việc một cách thiếu trách nhiệm dù ngài được vua kính trọng và được tự do trong việc điều hành trường dịch thuật này.
Mức độ khả tín trong bản
dịch cùa La Thập
Chúng ta đã biết là các bản dịch của La Thập rất được
kính trọng. Ở Trung Hoa cũng như ở nhiều quốc gia khác, khi có nhiều bản dịch
thì người ta thường chọn bàn của La Thập làm bản chuẩn. Nhiều bản dịch cũ đã
không được dùng nữa từ khi bản dịch mới của La Thập xuất hiện. Vì uy tín bản
dịch của La Thập cao như vậy, từ trước hầu như không có ai lên tiếng phê bình
hoặc để công sức phân tích so sánh các bản dịch, hay so sánh với chính bản Phạn
văn để trả lời thắc mắc về mức độ khả tín của các bản dịch của La Thập.
Tuy
nhiên, dù không phê bình trực tiếp, nhưng lẽ dĩ nhiên vẫn có những bản dịch
khác dịch ngay lại bản đã được La Thập dịch trước. Điều này ít nhất cho chúng
ta thấy vẫn có các vị cho là bản dịch của La Thập chưa phải là hoàn hảo. Thí dụ
điển hình là dù đã có bản dịch Kim cang bát nhã nổi tiếng của La Thập mà sau đó
chúng ta còn thấy có thêm 5 bản dịch khác, mặc dù bản dịch của La Thập vẫn tiếp
tục được coi là định bản. Và trường hợp kinh Kim cang bát nhã này không phải là
trường hợp duy nhất. Thí dụ khác là bản dịch Tâm kinh bát nhã của Huyền Trang (600 –
664) đã trở nên quá nổi tiếng và phổ biến đến nỗi rất ít ai biết La Thập trước
đó hai trăm năm cũng đã từng dịch kinh này dưới tên Ma ha bát nhã ba la mật đại minh chú kinh (T. 250).
Từ thế kỷ 20, người ta bắt đầu nghiên cứu về Phật học
một cách trường ốc sâu rộng hơn, khác với truyền thống thường là nghiên cứu cho
nhu cầu tôn giáo. Một vài học giả của thế kỷ vừa qua chịu ảnh hưởng phương pháp
nghiên cứu phân tích giảo chứng của Tây phương cũng đã đặt vấn đề về giá trị
của các bản dịch của La Thập. Tiên phong là các học giả Nhật Bản vì các vị này
vừa thông thạo chữ Hán vừa có truyền thống học chừ Phạn rất sâu từ xa xưa, đặc
biệt là từ ngày Kobo Daishi (Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải 774 – 835) mang Mật
tông về truyền bá ở Nhật. Cũng nên nhớ Nhật Bản là nước duy nhất ở Á Châu có cả
một chính sách cấp quốc gia trong nỗ lực học tập Tây phương về mọi mặt từ khoa
học cho đến các ngành nhân văn xã hội từ rất sớm[24]. Richard Robinson dẫn trong luận án
tiến sĩ của ông[25] về trường hợp học giả
Nhật Bản Ocho Enichi trong “Kumarajiva’s Translation” (1957) cho biết “La Thập
đã bỏ nửa phần cuối của Bách luận, viết lại Trung luận sớ, bỏ bớt các đoạn trong
kinh Sarvastivadi
– vinaya (Thập tụng luật T. 1435)’’, nên từng lên tiếng là La Thập đã
dám sửa lời của đức Từ Phụ. Nhưng cũng theo Robinson thì Bách luận, Trung luận chỉ là luận chứ chưa
phải là kinh, còn vài thí dụ bị bỏ trong kinh Thập tụng cũng chỉ là lời bàn
thêm, cho nên không thể nói là La Thập đã sửa chừa lời của đức Phật. Cuối cùng
Robinson kết luận “Tổng quát thì La Thập và nhóm của ông chưa bao giờ rút gọn
kinh điển, kể cả những đoạn kinh được lặp đi lặp lại. Họ đã không bỏ bất cứ lời
kinh nào, nếu có bỏ La Thập chỉ bỏ đi những tên hiệu” [26] (như trong trường họp kinh Kim cang bát nhã, La Thập chỉ giữ danh
xưng Thế Tôn, mà bỏ đi các tên hiệu thêm vào sau như “Vị cao cả, bậc Giác ngộ
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, V.V.”)
Cho đến gần đây, khi có các sách luận như sách Trí
tuệ giải thoát này có so sánh về các
dịch bản thì cá nhân tôi cũng như các học giả khác cũng chưa có ai trực tiếp
phê bình và định luận về mức độ khả tín các bản dịch của La Thập. Sự kiện này
nói lên uy tín các bản dịch của La Thập quả quá lớn. Nhưng về mặt kinh viện, sự
kiện này cũng nói lên sự thiếu sót trầm trọng của học giới hiện nay vì vẫn chưa
có ai có khả năng trực tiếp trả lời câu hỏi về mức độ khả tín của các bản dịch
của La Thập. Ngay trong luận án cùâ Richard H. Robinson mà chúng tâ đã
dẫn (Early Madhyamika in India and China, do Arthur Waley và David Fiedman bảo trợ và
Edward Conze cố vấn) chi mới thử so sánh bản dịch 16 bài kệ đầu tiên
trong Trung luận do La
Thập dịch với nguyên tác Sanskrit. Sau thí nghiệm nhỏ này, cuối cùng Robinson
cũng chi đưa đến một nhận xét chung chung như chúng ta đã thấy trong Trí
tuệ giải thoát và các sách tương tự.
Nghĩa là nhận định cho rằng lối dịch của La Thập rất “trôi chảy và phóng khoáng
vì ngài có thể bỏ bớt vài chi tiết nhỏ, đảo lộn thứ tự câu cú, nhưng có thể nói
là không bỏ sót các chi tiết lớn, và điều quan trọng nhất là không trình bày
sai nội dung nguyên tác hoặc có thể hướng người đọc đến việc có thể hiểu lầm
nguyên tác”[27]. Như đã nói, thí nghiệm của
Robinson quá nhỏ, và những trích dẫn so sánh tương tự của các sách đã xuất bản
gần đây thường quá ngắn gọn để đưa đến kết luận nào. Thành ra câu hỏi là mức độ
khả tín các dịch bản của La Thập cho đến nay vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả
lời thật sự rõ ràng. Trong khi chờ đợi, thì chúng ta đành chỉ còn biết tin
tưởng vào sự đánh giá thống nhất của truyền thống xuyên suốt từ hơn 15 thế kỷ
qua[28].
Ảnh hưởng của La Thập
Tóm lại chúng ta có thể thấy dưới ảnh hưởng các dịch
phẩm của La Thập và ngôn ngữ Phật học Hán ngừ mà La Thập đã góp công thiết lập,
đã trở thành cơ bản chung của nội dung Phật học Á Đông, một nội dung mà sau này
các nhà Phật học khác tiếp tục vun xới. Tuy nhiên, có thể vì quá hâm mộ La Thập
mà trong giới nghiên cứu Phật học Trung Hoa cho rằng ngài là tổ sư của các tông
môn này nọ và có nhiều đệ tử lỗi lạc tiếp tục truyền bá tư tưởng của ngài thì
đều là các ý kiến không có đủ chứng cớ thuyết phục.
Điều rõ ràng là La Thập không hề để lại tác phẩm nào
và cũng không hề có tư tưởng khai sáng môn hộ. Sau khi La Thập mất thì tất cả 3000 tăng sĩ tập trung
ở dịch trường và Trường An Đại Tự cũng phân tán đi khắp nơi và họ tiếp tục sinh
hoạt như những tu sĩ độc lập khác. Hơn nữa, chỉ vài năm sau, triều đại Diêu
Tần, nguồn ủng hộ tài chánh và uy thế cho La Thập, cũng đi vào suy vong. Ngay
từ thời La Thập còn tích cực và hoạt động sôi nổi nhất, thì ngoài việc dịch
thuật La Thập không bao giờ chú ý và tỏ ra thích thú về việc trước tác lập
ngôn. Ngay trong các bản dịch La Thập cũng chì viết vài lời vắn tắt, trừ trường
hợp các lời luận chú dài hơn trong bản dịch kinh Duy Ma Cật sở
thuyết (T 475). Nguồn tài liệu duy nhất
người ta có thể biết về quan điểm và tư tưởng riêng của La Thập là qua 18 lá
thư qua lại trả lời cho thư vấn đạo của nhóm ngài Huệ Viễn là những truyền nhân
đệ tử của đại sư Đạo An đang tu tập ở Lô Sơn[29]. Qua 18 lá thư này còn lại trong Đại thừa đại nghĩa chương tôi cũng không thấy
được các tư tưởng riêng tư và cốt lõi của trí tuệ La Thập. Lý do chính là nội
dung của các thư chỉ trả lời các câu hỏi nặng về giáo nghĩa. Thí dụ trong số 18
lá thư đó thì đã có 10 lá thư chi hỏi về vấn đề pháp thân (dharmakaya). Các câu
hỏi khác là về khác biệt giữa la hán với bồ tát, về tương lai Phật quả của hàng
La hán… Cho nên các thư trao đổi của Huệ Viễn với La Thập cũng không phải là
nơi cho La Thập bày tỏ tư tưởng của ngài.
Có lẽ La Thập nghĩ rằng, và tôi nghĩ ngài nghĩ đúng và
đã làm đúng, là tất cà giáo Pháp của đức Phật đã rõ ràng và đầy đủ trong kinh
tạng. Điều La Thập đang làm và là việc ngài có thể làm tốt nhất, là dịch lại
các lời dạy đó qua ngôn ngừ mới của một xã hội có một cơ sở văn hóa truyền
thống khác hẳn với môi trường xã hội và văn hóa Ấn Độ trước đó cả ngàn năm. Lập
ngôn thì như vậy còn việc khai môn lập phái là duyên và phận của những người
khác, khác hơn La Thập. Vì trong đời sống và sinh hoạt riêng tư[30], theo những gì chúng ta biết qua những
gì còn lại trong sử sách, thì bản thân La Thập cũng là một học giả tăng hơn là
một nhà chuyên tu hoặc mang những đặc tính mystic cần có của người khai sáng môn hộ.
Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy ảnh hưởng của La Thập
vẫn tiếp tục chi phối sinh hoạt tri thức của người Á Đông một cách bền bỉ không
cần đến tổ chức môn hộ mà
qua chính các dịch phẩm của ngài, về môn hộ, như chúng ta đã biết La Thập không tự sáng lập môn
phái nào nhưng ông vẫn được tôn xưng là sơ tổ hay long tượng của nhiều tông môn
học phái như Tam luận tông, Thiên thai tông, Thành thật tông, Tịnh độ tông v.v.
vì có lý do riêng của nó.
Về Tam
luận tông mà cho La Thập là sơ tổ vì cả ba dịch phẩm của La Thập là Trung
luận (của Long Thọ), Nhị môn luận (của Long Thọ),
và Bách luận (của Thánh Thiên) đã trở thành cơ sở tư tưởng của
Tam luận tông. Thêm vào là các sáng tác luận khảo của Quan trung tứ
thảnh gồm bốn đại luận sư cũng là bốn vị trong La Thập thập
đại đệ tử là Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Triệu, và Tăng Duệ cũng là sách
căn bản lập cước của Tam luận tông. Chính những vị này mới thật là những người
sáng lập ra Tam luận tông. Đây là một tông môn quan trọng không những tiếp nối
truyền thống Trung Quán Ấn Độ mà còn mang nhiều tính chất đặc thù Á Đông. Tam
luận tông truyền sâu qua xứ sở Triều Tiên và Nhật Bản, nơi nó còn ảnh hưởng đến
cả sinh hoạt văn hóa và chính trị. (Đặc biệt là qua các hoạt động quan trọng
của Thánh Đức thái tử (Shotoku 574 – 622),một vị thánh của Nhật Bản).
Tam luận tông Trung Hoa hiện nay không còn sinh hoạt như một tông môn riêng
biệt nhưng vẫn là một môn Phật học được tiếp tục nghiên cứu học tập.
Giáo pháp của tông Thiên Thai dựa trên kinh Diệu
pháp liên hoa, qua bản dịch của La Thập
nên vẫn coi La Thập là một vị long tượng trong tông môn. Thiên Thai tông xưng
Long Thọ là sơ tổ vì lập cước trên ba tư tưởng không, giả, trung danh tiếng của Long Thọ[31] cũng là qua các dịch bản của La
Thập. Thiên Thai là một tông môn lớn vẫn tiếp tục được tu trì truyền bá ở Trung
Hoa nở hoa ở Nhật Bản và tiếp tục còn sinh hoạt đến ngày nay. Thiên Thai tông
thật sự có thể nói do đại sư Trí Khải (538 – 597) mở đạo. Tư tưởng tứ thời bát
giáo và pháp tu chỉ quán của ngài Trí Khải thật sự có ảnh hưởng rất lớn trên
hầu hết các tông môn của Phật giáo Trung Hoa.
Vị trí của La Thập trong Tịnh độ tông cũng giống như
trong Thiên thai tông và Thành thật tông. Tịnh độ tông là một tông môn của đại
đa số Phật giáo Đại thừa ở Đông Nam Á ngày nay, có thể nói Huệ Viễn (334 – 416)
là sơ tổ. Huệ Viễn lại là học trò của ngài Đạo An, cả hai đều có giao tình với
La Thập rất hậu. Còn Thành thật tông là tông môn lấy Satyasiddhisastra
(Thành thật luận do La Thập dịch, T
1646) làm cơ sở luận. Thành thật tông lại cũng do hai học trò khác của La Thập
là Tăng Đạo và Tăng Khải phổ biến. Thật ra thì có thể nói Thành thật tông có
xuất xứ tận giáo pháp của kinh Lượng bộ (Sautratika) từ Ấn Độ xa xưa.
Tuy nhiên thành tích của La Thập không chỉ có trong
các sự nghiệp khai lập môn hộ, mà còn có cả thành tích “phá huỷ” trong việc làm tàn rụi nhiều tông
môn khác. Đó là trường hợp suy tàn của “Lục gia thất tông”, là những môn hộ Phật giáo Trung Hoa nổi tiếng thời Nam Bắc triều là
thời gian mà Phật giáo bắt đầu phát triển ở nước này. “Sáu nhà bảy tông” là gồm
Bản vô tông, Bản vô dị tông, Tức sắc tông, Tâm vô tông, Thức hàm tông, Ảo hóa
tông, và Duyên hội tông. Sáu nhà cũng là bảy tông, vì sau một thời gian Bản vô
Tông sát nhập vào các tông khác nên còn có sáu tông, người ta gọi là Lục gia.
Như danh xưng của các Lục gia thất tông ám chỉ, các
tông môn này chủ vào việc bàn thảo suy nghiệm về tư tưởng hữu vô của Phật học
và Lão Trang để sáng môn lập phái. Mà vào thời đó, phần vì tư tưởng Phật giáo
quá mới mẻ, phần vì thiếu cả thầy lẫn kinh sách, phần lớn các tư tưởng về Phật
học của Lục gia thất tông đưa ra luận giải hoặc lập cước làm tông môn, thật ra
chưa thật đúng với Phật lý chính truyền. Như chúng ta đã nói, trong thời Phật
giáo mới du nhập, Phật giáo đã phải dùng các tư tưởng, ngôn ngừ của Đạo học để
truyền bá vào Trung Hoa. Lẽ dĩ nhiên, các cách giảng dịch này có ưu điểm là làm
cho người Trung Hoa dễ hiểu Phật giáo hơn, nhưng cũng từ đó đã nẩy sinh ra các
cách hiểu Phật giáo một cách không chính xác, như tôi đã có dịp trình bày như “Vôvi’’ của Phật học rất khác xa “vô vi” của Lão học: “Thuật ngữ Phật học của chữ Hán (và
Hán – Việt) có nguồn gốc từ kinh điển Đạo học Trung Hoa dùng trong kinh điển
Phật giáo nhưng rất nhiều khi khác với ý nghĩa nội hàm nằm trong kinh điển Đạo
học Trung Hoa. Có khi còn khác hẳn “nghĩa đen” của mặt chữ (nghĩa là người ta
không thể tìm nghĩa đó trong loại tự điển tổng quát)’’[32].
Cho nên theo Cát Tạng trong Trung quán
luận sớ (T. 1824) khi các kinh luận về
tánh không của La Thập dịch và luận của Tăng Triệu ra đời, các lý giải của các
nhà hầu như bị thu hút và sau đó các tông này cũng dần dần tàn rụi. Tất cả dấu
vết giáo nghĩa và luận thuyết một thời huy hoàng và hoạt động của Lục gia thất
tông trong cả trăm năm ngày nay chi còn lại những đoạn văn rời trong Trung
quản luận sớ của Cát Tạng. Và đó cũng
là một thành tích khác của La Thập mà ít người biết đến.
Vũ Thế Ngọc
Viết tặng các huynh đệ của
Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang
Nguồn: Suối Nguồn tập 3
& 4
Chú thích
[1] Niên biểu La Thập ở đây
viết theo J. Nobel, “Kumarajiva”,Sitzungsberichte der
Preussischen Akademie der Wissenschaften, Berlin 1927 (tr. 206 – 33). Theo
nghiên cứu của z. Tsukamoto, “The Dates of Kumarajiva and Seng – chao
Reexamined,” Jin- bun Kagaku Kenkyusyo, Tokyo University 1954 (tr. 568 – 84)
thì La Thập sinh năm 350 mất vào cuối năm 409.
[2]
Vũ Thế Ngọc, Nghiên cứu Pháp bảo đàn kinh, Nxb Phương Đông, (2010), tr. 46 – 48
[3] Thí dụ
Paul Demiéville trong La Yogacarabhumi de Sangharaksa, BEFEO, XLIV, n.2, Saigon
1954, tr. 351 dẫn chứng nghiên cứu so sánh của nhà nghiên cứu Nhật Bản K. Fuse
chứng minh là bản kinh Diệu pháp liên hoa (T 265) của La Thập dùng bản Sanskrit
cổ hơn và chính xác hơn bản kinh Chính pháp liên hoa (T 263) củâ Trúc Pháp Hộ,
dù Trúc Pháp Hộ dịch trước cả trăm năm.
[4] Nhất
thiết hừu bộ (nhiều học giả coi là tông môn trung gian giừa Tiều thừa và Đại
thừa) có tam tạng kinh luận hoàn toàn viết bằng Sanskrit và được địch ra Hán
văn rất nhiều, hiện còn tồn tại khá nhiều trong tam tạng Hán văn. Bộ Abhidharma
(A tì đàm) và Abhidharmakosa (A tì đạt ma Câu xá luận) của Thế Thân có ảnh
hường rất lớn trong Phật giáo Đại thừa.
[5] Thomas Waters, On Yuan –
chwang’s Travels in India, London: Roral Asiatic Soci¬ety, 1904,tr. 53 – 64.
[6] Walter Liebenthal, The
Book of Chao, Peking, Catholic Uiversitry Prss 1948,demie tr.265
[7] Theo
Truyền thống Hoa Nhật thì Suryasoma là thuộc Trung Quán Tông nên La Thập là
người kế thừa truyền thống Nagaijuna (Long Thọ) – Aryadeva (Thánh Thiên)
-Rahulabhadra (La Hầu La Da) – Suryyasoma – Kumarajiva.
[8] Trận
chiến Phù Thủy là một trận chiến lớn “thay đổi hẳn vận mạng lịch sử Trung Hoa”
theo K. Chen, Buddhism in China, Princeton Press 1972. Việt Nam còn biết tới
qua thơ Chinh phụ ngâm khúc “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo, Bấn Phì gió thổi đìu
hiu mấy gò”.
[9] Vũ Thế
Ngọc, Nghiên cứu Lục Tổ đàn kinh, sđd, tr. 36 – 39
[10] “The
philosophy of the early Confucianists did not reach ‘the sphere of the
abstract, nor ferry over into the beyond.’ “
[11] Sau
khi Phật giáo vào Trung Hoa, do ảnh hưởng Phật giáo, phong trào “Tân Nho giáo”
khai sinh từ thế kỷ thứ 8 và nỡ hoa kết trái vào thời Tống (960 – 1279) với
đỉnh cao là Lục Tượng Sơn (1139 – 1193) thời nhà Minh (1368 – 1643) với Vương
Dương Minh (1472 – 1529). Đây là một đề tài quan trọng nên đã quyến rũ học giới
hơn, nên trong thế kỷ vừa qua đã có rất nhiều sách và luận án khảo sát về đề
tài “Phật hóa Nho Giáo” hay “Neo – Confucianism” nhưng đề tài “Thiền hóa Lão
Trang” hay “Neo – Taoism” vẫn còn là mảnh đất trống của học giới.
[12] Giống
chữ Book của Anh ngừ cổ điển không có nghĩa là quyển sách (chữ book trong Thánh
Kinh Bible thì giống như chữ Phẩm trong kinh Phật) đừng hiểu Quyển là một tác
phẩm riêng rẽ như chữ quyền ngày nay (Bộ). Quyển ở đây chỉ là “một khổ giấy”
với số trang nhất định.
[13] Theo
Paul Demiéville “La Penetration du Boudhisme dans la tradition philoso- phique
chinoise,” trong Cahiers d’histoire mondiale, III (1956), tr. 19 – 38. Trúc
Pháp Hộ (Dharmaraksa, 239 – 316) còn có tên chữ Hán là Đàm Ma La Sát. Sinh trường
ở Đôn Hoàng, ngài thông thạo cả Phạn ngừ lẫn Hán ngữ trước khi đến Lạc Dương và
Trường An dịch kinh. Theo Lịch đại tam bảo kí ngài dịch đến 210 bộ kinh, hiện
trong Tăn tu đại tạng còn 94 bộ mang tên ngài.
[14] Theo
Hatani Ryotai, đo Richard Robinson dẫn lại trong Early Madhyamika in India and
China, tr. 73.
[15] Đây
chi là những kinh tôi hiện có (2009), có lẽ những năm vừa qua Việt Nam có dịch
thêm nữa.
[16] Paul Demiéville trong
“Review of Lamotte’s Traité (tome II,Journal Asiatique 1950 pp
375 – 95) cho biết khi La Thập dịch kinh Duy Ma Cật mà Lamotté dịch ra Pháp ngừ
viết: “La Thập và Hoàng đế đích thân đọc từng chữ của hai bản Hán ngữ và
Sanskrit và bàn định với nhau.”
[17]
Nghiên cứu Lục Tổ đàn kỉnh, sđd, tr. 44, 45
[18] Người
Trung Hoa rất kính trọng dòng tộc. Trước thời Đạo An khi đi tu thì có người vẫn
giữ tên họ, người thì lấy thêm tên của thầy mình như họ An là sư gốc An Tức
(Partia), Vu là các sư gốc Vu Điền (Khotan), Trúc là sư gốc Án Độ (India),
Khang là sư gốc Khang Cư (Soghdiana), Chi là người Nguyệt Chi (Indoscyth)…
[19] Ngũ
thất bản: 1) Thứ tự chữ (word order) trong Phạn văn khác hẳn Hán văn. 2) Người
Hồ chú trọng đến nội dung, người Hán yêu chuộng ngôn ngữ bóng bẩy. 3) Kinh điển
Phạn văn thích lặp đi lặp lại, nhiều khi lặp lại một đoạn văn đến cả ba bốn
lần, Hán văn thì không quen lối văn đó. 4) Khi người Hồ cần giải thích, ý nghĩa
thì không gì sai lầm nhưng lại nằm ở giữa các câu không liên hệ, lúc người đọc
không thấy cỏ nối kết với câu cú nên khi dịch cổ khi bỏ mất cả ngàn chừ. 5) Khi
chủ đề chính đã được trình bày xong, nhiều khi bản Phạn văn lại nói thêm ý phụ.
Lại dùng trờ lại các câu cú mệnh đề giống như phần chính, người dịch thường bỏ
đi (cho là trùng lặp, dư thừa..)
[20] Tam
bất dị: Ba điều về sự khác biệt giữa ngôn ngữ của bậc toàn trí và ngôn ngự của
phàm nhân, ngôn ngữ nghĩa tuyệt đối và ngôn ngừ thông tục, giữa ngôn ngữ cổ
điển và ngôn ngữ thời hiện tại. Nhiều người còn gọi là tam bất dịch (ba điều
không được dịch: thí dụ Prajna chỉ dịch âm là bát nhã không được dịch nghĩa là
trí tuệ, ngôn ngữ của các thần chú cũng vậy)
[21] Tăng
Duệ viết lầm là “chúng”
[22] Tăng
Duệ lầm. Sự thật La Thập dùng cà hai chừ tính và giới (xem Ma ha bát nhã T.
223)
[23] La
Thập tiếp tục dùng cả hai chữ bối xứ và giải thoát (xem Ma ha bát nhã T. 223)
[24] Các danh từ khoa học tự
nhiên cũng như xã hội dịch từ các ngôn ngữ Âu Châu mà Trung Hoa sử dụng (và sau
đó Việt Nam dùng lại thí dụ như “Danh từ Khoa học Hoàng Xuân Hãn”)có rất nhiều chữ có nguồn
gốc từ Nhật Bản.
[25]
Richard Robinson Early Madhyamika in India and China, University of London,
1965
[26] Ibid,
trang 81.
[27] Ibid,
trang 87.
[28]
Truyền thuyết còn kể lại trước khi thị tịch, La Thập có di ngôn rằng: “Nếu
những kinh điển tôi dịch không có sai lầm, thì sau khi thiêu thân này lưỡi của
tôi sẽ không cháy rã”. Quả nhiên sau khi thiêu, lưỡi ngài còn nguyên.
[29] Nên
biết giao tình của La Thập với các đệ tử của Đạo An rất thân thiết. Dù Đạo An
chưa bao giờ gặp La Thập nhưng là người mờ đường cho La Thập đến Trường An và
cung cấp những nhân lực quan trọng cho nhóm làm việc với La Thập trong suốt 10
năm ở Trường An.
[30] Sử
nói rằng Vua Diêu Hưng rất kính trọng La Thập và muốn tiếp nối dòng giống thông
minh cự phách của La Thập nên đã từng tặng cho La Thập mười cung nữ trẻ đẹp,
với lý do coi La Thập như bồ tát Duy Ma Cật. La Thập bất đắc dĩ phải nhận.
[31] Thực
tế Long Thọ chi nói đến Nhị đế, nhưng Thiên Thai tông lại căn cứ vào kinh Nhân
vương bát nhã và ý nghĩa trung đạo của Long Thọ giảng dạy mà lập ra “Tam đế viên
dung.” Trái lại trước sau Tam luận tông thì cho rằng thuyết Nhị đế triệt để hơn
Tam đế.
[32] Vũ Thế Ngọc, Nghiên cứu
Lục Tổ đàn kinh, sđd, trang 44 – 46: “Thí dụ đơn giàn nhất là chữ đạo trong Đạo
đức kinh vốn là một ý niệm xuyên suốt cả tác phẩm với ý nghĩa là bàn thể chân
lý như một qui luật vũ trụ được định nghĩa tới 76 lần trong quyển sách ngắn gọn
chỉ có 5 ngàn chữ này. Dùng trong kinh sách Phật giáo chừ đạo lại dùng để dịch
chữ Bodhi (bồ đề/ giác ngộ) như “bồ đề tràng” thành “đạo tràng”, “bồ đề tâm”
thành “đạo tâm”, “Vô thượng bồ đề” thành “Vô thượng đạo”, hay dịch tên riêng
cùa Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là “Đạo Pháp,” tu sĩ Phật giáo cũng được gọi là
Đạo sĩ (trước khi được gọi là tăng sĩ) v.v. (Chừ đạo ngoài ra cũng dùng để dịch
chừ marga có nghĩa là “đường” như nghĩa gốc của chữ đạo trong các cụm từ “bát
chánh đạo”, “phương tiện đạo”). Ngoài ra những chữ tưởng là rất “thông thường”
như chữ “vô” hay “không” trong thuật ngữ Phật học cũng không đồng nghĩa với chữ
“vô” của Đạo đức kinh. Chữ “vô” hay “không” này của Phật học cũng không có
nghĩa là “không có” hay “không hiện hữu” theo nghĩa tự điển (chữ “vô” trong
Phật học có nghĩa là “không thường hằng” hay “không có tự tánh”).’’
0 Comments
Đăng nhận xét