Kính lạy Bụt, người Cha lành muôn loại
Chở che con trên muôn nẻo dặm đường
Giữa muôn trùng sóng cả là tình thương
Người cứu vớt cho chúng sanh thoát khổ
--LN-19.04.2025--
P.s: Hướng về Đại lễ Vesak 2025
Lễ Phật đản là ngày lễ trọng đại được Phật giáo tổ chức hàng năm nhằm tôn vinh những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật và theo đề nghị của 34 quốc gia theo Phật giáo trên thế giới, ngày 15/12/1999 Đại hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc tại phiên hợp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự đã chính thức công nhận Đại lễ Phật đản là một lễ hội văn hóa tôn giáo quốc tế của Liên Hiệp quốc (Vesak), là ngày Đại lễ kỷ niệm Đức Bổn sư Thích ca đản sinh thành đạo và nhập Niết bàn (hay còn gọi là Đại lễ Tam hợp). Từ năm 2000 trở đi, những hoạt động kỷ niệm lễ Phật đản Liên Hiệp quốc (Vesak) sẽ được diễn ra hàng năm tại trụ sở và các trung tâm của Liên Hợp quốc trên thế giới và được tổ chức vào ngày trăng tròn của tháng 5 dương lịch.
Đại lễ Phật Đản là ngày lễ trọng đại được tổ chức hằng năm bởi cả hai truyền thống Nam tông và Bắc tông. Ngày nay người ta thường biết đến Phật Đản qua tên gọi Vesak. Từ Vesak chính là từ ngữ thuộc ngôn ngữ Sinhalese cho các biến thể tiếng Pali, "Visakha". Visakha / Vaisakha là tên của tháng thứ hai của lịch Ấn Độ, ngày lễ vào tháng vesākha theo lịch Ấn Độ giáo, tương ứng vào khoảng tháng 4, tháng 5 dương lịch. Là ngày Đại lễ kỷ niệm Đức Bổn sư Thích ca đản sinh thành đạo và nhập Niết bàn (hay còn gọi là Đại lễ Tam hợp).
Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nguyên thuỷ. Ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ:
- Đức Bồ Tát Ðản Sanh
- Đức Phật Thành Đạo
- Đức Phật nhập Niết Bàn.
Đức Phật ra đời vào ngày rằm tháng Tư âm lịch. Lời nói đầu tiên của con người hi hữu phi phàm này ngay sau khi xuất hiện giữa trần gian ở vườn Lâm-tỳ-ni tại thành Ca-tì-la-vệ như sau:
“Ta là bậc cao nhất trên đời,
Ta là người quý nhất trên đời,
Ta là bậc chí tôn trên đời,
Sự sinh ra của ta kiếp này là kiếp cuối cùng,
Nay ta chẳng còn tái sinh nữa.”
Ngài lớn lên trở thành người tài ba lỗi lạc, tướng mạo cực kỳ khôi ngô, sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, hầu xinh, giường ngà, chiếu ngọc, nhưng với chí nguyện “độ đời”, lúc nào Ngài cũng băn khoăn, suy tư, khắc khoải, lo âu tìm kiếm một con đường giải thoát để cứu khổ cho chúng sanh đang u mê trong đêm tối của cuộc đời.
Vượt kinh thành, xuất gia tìm đạo và trải qua sáu năm khổ hạnh, màn trời chiếu đất cơ cực trăm bề, rốt cuộc Ngài tự phát hiện ra con đường Trung đạo, có năng lực đưa đến thoát ly sinh tử, và cuối cùng Ngài đã đắc đạo quả trong ngày rằm tháng Tư.
Lời nói đầu tiên khi Đức Thế Tôn vừa đắc quả Phật: “Ta lang thang trong vòng luân hồi, trải qua bao kiếp sống. Ta đi tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà, cứ lặp đi lặp lại đời sống quả thật phiền muộn. Này hỡi kẻ làm nhà, nay ta đã khám phá ra ngươi, từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai được nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy đổ, kèo cột bị phá tan. Mọi ái dục Như Lai đã đoạn trừ, Như Lai đã chứng quả vô sanh bất diệt”. (Kpc 153 – 154)
Sau khi chứng quả Chánh Biến Tri, thay vì an hưởng quả vị siêu thoát một mình, nhưng với lòng từ bi vô lượng thúc đẩy Ngài không nỡ để cho chúng sanh chìm ngập khổ sầu mãi trong biển lệ trầm luân, nên Ngài nỗ lực suốt 45 năm trường đem đạo vàng truyền bá khắp nơi, nhằm một mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc và giải thoát cho chư thiên và nhân loại.
Cuộc đời hoằng hóa của Ngài suốt 45 năm đều đặn như sau:
- Sáng, đi khất thực và gieo duyên lành cho chúng sanh.
- Chiều, thuyết pháp cho chúng sanh.
- Tối, giáo giới chư Tăng.
- Khuya, giảng pháp và trả lời thắc mắc cho chư thiên.
- Rạng đông, dùng Phật nhãn xem xét trong tam giới có chúng sanh nào hữu duyên để tế độ hôm ấy.
Do đó đời Ngài hoàn toàn hy sinh để thực hiện hạnh độ đời cho đến hơi tàn sức kiệt, Ngài trở về Câu-thi-la và Ngài tịch diệt. Thân Ngài nằm giữa hai cây Long Thọ, và hôm ấy nhằm ngày thứ tư, rằm tháng Tư.
Lời nói cuối cùng của Ngài trước khi nhập Niết Bàn: “Nầy chư Tỳ kheo, từ lâu nay các con nương nhờ nơi Như Lai, nay Như Lai sắp từ giả các con, kiếp sống thật là ngắn ngủi, vạn vật có sự tan rã là lẽ thường. Các con không nên có sự buồn khổ, các con hãy cố gắng chuyên cần hành đạo và đừng nên dễ duôi. Sau khi Như Lai nhập Niết bàn, Kinh-Luật là thầy của các con vậy.”
Như vậy, Đại lễ Vesak theo tinh thần kinh điển Nikaya chính là ngày kỷ niệm Bồ Tát Đản sinh, thành đạo và đức Phật nhập Niết Bàn. Cuộc đời Ngài đã thuộc về quá khứ nhưng uy danh Ngài vẫn sống mãi với lịch sử và trong lòng những người yêu chuộng hòa bình và chân lý.
Tại Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và các nước láng giềng Đông Nam Á theo truyền thống Thượng tọa bộ, lễ Phật đản được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng Vaisakha của lịch Phật giáo và lịch Hindu, mà thường rơi vào tháng 4 hoặc tháng 5 của lịch Gregoria phương Tây. Lễ hội được gọi là Visakah Puja (lễ hội Visakah) hay là Buddha Purnima, Phật Purnima (बुद्ध पूर्णिमा), Purnima nghĩa là ngày trăng tròn trong tiếng Phạn hay là Buddha Jayanti, Phật Jayanti, với Jayanti có nghĩa là sinh nhật ở Nepal và Tiếng Hindi. Thái Lan gọi là Visakha Bucha; Indonesia gọi là Waisak; Tây Tạng gọi là Saga Daw; Lào gọi là Vixakha Bouxa và Myanmar (Miến Điện) gọi là Ka-sone-la-pyae (nghĩa là Ngày rằm tháng Kasone, cũng là tháng thứ hai trong lịch Myanmar).
Tại Đại hội Phật giáo Thế giới lần đầu tiên diễn ra tại Colombo, Sri Lanka, 25 tháng 5 đến 8 tháng 6 năm 1950, các phái đoàn đến từ 26 quốc gia là thành viên đã thống nhất ngày Phật đản quốc tế là ngày rằm tháng Tư âm lịch.
Ngày 15 tháng 12 năm 1999, theo đề nghị của 34 quốc gia, để tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên Hợp Quốc, những hoạt động kỷ niệm sẽ được diễn ra hàng năm tại trụ sở và các trung tâm của Liên Hợp Quốc trên thế giới từ năm 2000 trở đi, được tổ chức vào ngày trăng tròn đầu tiên của tháng 5 dương lịch.
Đại lễ Phật đản Liên Hiệp quốc (Vesak) không những là ngày lễ trọng đại của Phật giáo, mà đã trở thành ngày lễ hội văn hóa tôn giáo của toàn cầu, mang nhiều ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa; là cầu nối hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới; đặc biệt quan trọng hơn là khẳng định được vị thế, trách nhiệm của Việt Nam đối với Liên Hiệp quốc, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần tăng cường vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới.
0 Comments
Đăng nhận xét